Thứ Ba, 10 tháng 11, 2015

Đàn sếu - Журавли

Đó là tên một bộ phim từng đoạt giải  Cành cọ vàng tại LHPQT Cannes lần thứ XI, giải Nữ diễn viên chính xuất sắc , giải quay phim và giải về kỹ thuật....   Phim mở đầu  với cảnh đôi trai gái ngắm nhìn đàn sếu đang bay đi tránh rét như dự cảm về một cuộc chia xa.  Và người trai ra trận.Nhà bị bom phá hủy, thất lạc cha mẹ, cô gái phải ở tạm với gia đình chàng trai và cô đã bị người em họ cưỡng đoạt khi đang ở một mình với y trong lúc quân Đức ném bom.  Mọi người đều tin là cô đã phản bội người yêu đang ở nơi chiến tuyến.
Anh bị bắn chết ở đầm lầy, khi đang cứu một binh sĩ khác. Tuy nhiên, người ta chỉ thông báo là anh đã mất tích.  Và cô gái đã chờ đợi trong hy vọng.
Bộ phim kết thúc với cảnh cô gái lao vào dòng người hân hoan trở về sau chiến tranh để chỉ tìm được một người bạn báo tin anh đã hy sinh. Mùa xuân, đàn sếu đang bay về như hiện thân của những người lính đã ngã xuống....
Tất cả những cảnh ấy có thể thấy trong video clip dưới đây cùng bài hát Đàn Sếu do nghệ sỹ Mark Bernes  thể hiện từng làm rung động bao con tim...

Điều tôi muốn nói là bài hát này không phải là của bộ phim nói trên như rất nhiều người đã nói. Tôi đã xem bộ phim này nhiều lần và đợi mãi mà không thấy bài hát.  Tìm hiểu thì được biết : phim sản xuất năm 1957, trong khi bài hát được phổ nhạc năm 1969.  Do có sự tương đồng về chủ đề nên người ta làm đoạn video clip trên để minh họa thôi.  Chúng ta có thể xem phim thuyết minh tiếng Việt ở  link này .

Không nhiều người biết rằng, nguồn cảm hứng cho bài hát ấy là từ nước Nhật. Khi nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Daghestan là Rasul Gamzatov thăm đài tưởng niệm các nạn nhân Hiroshima, một bé gái Nhật Bản đã tặng ông một con sếu gấp bằng giấy . Hình ảnh những con sếu đã khiến ông liên tưởng đến những chiến binh tử trận. Và ông đã sáng tác bài thơ "Đàn sếu" bằng tiếng Alva- tiếng mẹ đẻ của ông,  Naum Grebnhev đã dịch bài này sang tiếng Nga.

Журавли
Мне кажется порою, что солдаты,
С кровавых не пришедшие полей,
Не в землю нашу полегли когда-то,
А превратились в белых журавлей.

Они, до сей поры, с времён тех дальних,
Летят и подают нам голоса.
Не потому ль так часто и печально
Мы замолкаем, глядя в небеса.

Летит, летит по небу клин усталый,
Летит в тумане на исходе дня.
И в том строю есть промежуток малый -
Быть может это место для меня.

Настанет день, и с журавлиной стаей
Я поплыву в такой же сизой мгле.
Из-под небес, по-птичьи окликая,
Всех вас, кого оставил на земле.

Мне кажется порою, что солдаты
С кровавых не пришедшие полей,
Не в землю нашу полегли когда-то,
А превратились в белых журавлей.
Đàn sếu
Tôi cảm thấy đôi khi, những người lính
Từ chiến trường đẫm máu chẳng quay về
Không nằm xuống nơi lòng đất lạnh
Mà hoá thành đàn sếu trắng bay đi…

Đàn sếu bay, từ thưở xa xưa ấy
Đến bây giờ, cất tiếng gọi chúng ta
Phải vì thế mà lòng thường buồn bã
Ta lặng im nhìn về phía trời xa

Bay, bay mãi trời cao, đàn mệt mỏi
Bay trong sương khi ngày đã tàn rồi
Và trong đàn vẫn còn kia khoảng nhỏ
Có lẽ là một chỗ để cho tôi.

Ngày sẽ đến, và tôi cùng đàn sếu
Bơi đi trong mờ mịt của khói sương
Từ trời cao, tôi sẽ cất tiếng chim
Gọi tất cả mọi người nơi mặt đất

Tôi cảm thấy đôi khi, những người lính
Từ chiến trường đẫm máu chẳng quay về
Không nằm lại ở nơi lòng đất lạnh
Mà hoá thành đàn sếu trắng bay đi…

Thật xúc động khi xem hình ảnh người lính ôm gốc bạch dương ngã xuống vẫn ngẩng lên nhìn bầu trời. Có lẽ cả anh khi đó và cả cô gái sau này đều mơ về cái chỗ nhỏ còn trống trong đàn sếu...
Bài thơ được Yan Frenkel phổ nhạc ( có rút đi 2 khổ).  Được nghe chính nhạc sỹ  thể hiện nhạc phẩm của mình cũng là một thú vị đặc biệt:

  "Đàn sếu" đã trở thành một ca khúc nổi tiếng trên toàn thế giới và được hát bằng các thứ tiếng Anh, Pháp, Nhật...Có rất nhiều ca sỹ khác cũng hát bài này. Tất cả đều thật sự xúc động. Xin hãy lắng nghe và cảm nhận bài hát qua những giọng ca khác nhau.

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét